Tên đăng nhập: Mật khẩu: Đăng ký || Quên mật khẩu
Lê Nhật Bảo's forum

Tư vấn pháp lý

TƯ VẤN PHÁP LÝ CHUYÊN NGHIỆP 24/24 LIÊN HỆ: 01688793966 MR. Lê Nhật Bảo.

You are not connected. Please login or register

Go downMessage [Page 1 of 1]

Sat Apr 14, 2012 8:53 pm
Admin
Admin

I. KHÁI NIỆM
1. Định nghĩa
- Sở dĩ gọi một số nguyên tắc của LQT là những nguyên tắc cơ bản bởi vì trong
hệ thống luật quốc tế tồn tại nhiều nguyên tắc khác nhau, trong đó có các
nguyên tắc điều chỉnh quan hệ liên quốc gia ở phạm vi toàn cầu, đồng thời lại
có cả những nguyên tắc điều chỉnh quan hệ giữa các nước cùng khu vực và nguyên
tắc điều chỉnh quan hệ trong từng ngành luật cụ thể của hệ thống luật quốc tế.
Trong các nguyên tắc này thì hệ thống các nguyên tắc cơ bản của LQT là những
nguyên tắc thể hiện tập trung nhất các quan điểm chính trị - pháp lý và cách xử
sự của các quốc gia trong việc giải quyết những vấn đề cơ bản, quan trọng nhất
của đời sống quốc tế.
Như vậy, các
[ nguyên tắc cơ bản của
LQT được hiểu là những tư tưởng chính trị, pháp lý mang tính chỉ đạo, bao trùm,
có giá trị bắt buộc chung (Jus cogens) đối với mọi chủ thể LQT. Trong LQT, các
nguyên tắc cơ bản tồn tại dưới dạng những quy phạm Jus cogens được ghi nhận ở
điều ước quốc tế và tập quán quốc tế.
2. Đặc điểm: các nguyên tắc cơ bản của LQT có 4 đặc điểm sau:
- Tính mệnh lệnh chung: Biểu hiện ở chỗ:
+ Tất cả các loại chủ thể đều phải tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của
LQT.
(VD: Hiến chương LHQ ghi nhận nguyên tắc "tận tâm, thiện chí thực hiện các
cam kết quốc tế" là nguyên tắc cơ bản của LQT. Theo nguyên tắc này, tất cả
các quốc gia thành viên của LHQ khi tham gia quan hệ quốc tế đều có nghĩa vụ
phải tuân thủ một cách triệt để, có thiện chí, không do dự các nghĩa vụ phát
sinh từ Hiến chương LHQ và các điều ước quốc tế; trừ các trường hợp ngoại lệ của
nguyên tắc).
+ Không một chủ thể hay nhóm chủ thể nào của LQT có quyền hủy bỏ nguyên tắc cơ
bản của LQT.
+ Bất kỳ hành vi đơn phương nào không tuân thủ triệt để nguyên tắc cơ bản của
LQT đều bị coi là sự vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế.
+ Các quy phạm điều ước và tập quán quốc tế có nội dung trái với các nguyên tắc
cơ bản của LQT đều không có giá trị pháp lý.
+ Ngoài ra, đối với các lĩnh vực có các nguyên tắc chuyên biệt như: Luật Biển
quốc tế, Luật hàng không dân dụng quốc tế...thì bên cạnh việc tuân thủ các
nguyên tắc cơ bản của LQT, các bên còn phải chấp hành các nguyên tắc chuyên
biệt trong từng lĩnh vực cụ thể.
(VD: Trong luật biển quốc tế có ghi nhận một loạt các nguyên tắc chuyên ngành
như: nguyên tắc tự do biển cả, nguyên tắc đất thống trị biển...các quốc gia khi
tham gia các quan hệ liên quan đến biển, song song với việc thực hiện nghiêm
chỉnh các nguyên tắc chuyên ngành họ cũng phải tuân thủ nghiêm chỉnh 7 nguyên
tắc cơ bản của LQT).
- Tính bao trùm: Nguyên tắc cơ bản của LQT là chuẩn mực để xác định tính hợp
pháp của toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp lý quốc tế. Đồng thời chúng được
thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của quan hệ quốc tế giữa các quốc gia.
(VD: Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác được áp dụng trong hầu hết các
lĩnh vực như kinh tế, văn hóa-xã hội...hay nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa
các quốc gia là nguyên tắc giữ vai trò quan trọng và có tính chất xuyên suốt
quá trình hợp tác trong tất cả các lĩnh vực của đời sống quốc tế).
- Tính hệ thống: Các nguyên tắc cơ bản của LQT có mối quan hệ mật thiết với
nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Biểu hiện ở chỗ: việc tôn trọng hay phá vỡ
nguyên tắc này sẽ làm ảnh hưởng đến nội dung và việc tuân thủ nguyên tắc khác.
(VD:. Nguyên tắc "bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia" là nguyên
tắc nền tảng để trên cơ sở đó các chủ thể LQT thực hiện các nguyên tắc khác
như: hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau... Việc vi phạm hay tuân thủ một cách triệt để nguyên tắc này sẽ
tác động rất lớn đến việc thực hiện một loạt các nguyên tắc còn lại của LQT).
- Tính thừa nhận rộng rãi: Đặc trưng này thể hiện ở chỗ: các nguyên tắc cơ bản
của LQT được áp dụng trong phạm vi toàn thế giới, đồng thời chúng được ghi nhận
trong hầu hết các văn bản pháp lý quốc tế quan trọng như: Hiến Chương Liên hợp
quốc, Tuyên bố năm 1970 về các nguyên tắc cơ bản của LQT, Định ước Hen-xin-ki
năm 1975 về an ninh và hợp tác các nước Châu Âu, Hiệp ước thân thiện và hợp tác
Đông Nam Á...
Trong các đặc điểm nêu
[ trên,
đặc điểm về tính mệnh lệnh chung là quan trọng nhất, tạo ra cơ sở pháp lý quan
trọng để các nguyên tắc cơ bản của LQT chi phối lại các nguyên tắc pháp luật
chung và nguyên tắc chuyên ngành.
3. So sánh các nguyên tắc cơ bản của LQT với các loại nguyên tắc khác của LQT:
Yêu cầu thảo luận: Từ kiến thức
[ chung
từ bài 1 liên quan đến các loại nguyên tắc trong LQT, xuất phát từ các đặc yêu cầu sinh viên tự tiến hành so sánh
"điểm
nêu trên của các nguyên tắc cơ bản các
nguyên tắc cơ bản của LQT và các loại nguyên tắc khác của Luật quốc tế. Sau khi
nghe câu trả lời của sinh viên, phân tích các ý đúng và sai của các câu trả
lời, giảng viên tổng hợp lại với các ý chính như sau:
* Giống nhau:
- Các loại nguyên tắc này đều hình thành trên cơ sở sự thỏa thuận của các chủ
thể LQT;
- Đều có giá trị bắt buộc đối với các chủ thể LQT.
* Khác nhau:
Giá trị pháp lý Phạm vi chủ thể chịu sự chi phối
Nguyên tắc cơ bản Có giá trị pháp lý bắt buộc chung với tính chất là quy phạm
Jus cogens đối với mọi chủ thể, mọi mối quan hẹ pháp luật và mọi lĩnh vực hợp
tác quốc tế
nguyên tắc này là thuớc đo tính hợp pháp của các quy phạm LQT.
Tất cả các chủ thể luật quốc tế phải chịu sự tác động của nguyên tắc cơ bản.
Không cho phép có sự thỏa thuận giữa các chủ thể về việc có thực hiện hay không
và thực hiện như thế nào.
Nguyên tắc chuyên ngành Là sự cụ thể hóa nguyên tắc cơ bản
Phải
phù hợp với nguyên tắc cơ bản của LQT Chỉ tác động trong phạm vi lĩnh vực cụ
thể khi chủ thể tham gia vào các quan hệ thuộc lĩnh vực đó
Nguyên tắc pháp luật chung Nguyên tắc này chưa đạt được sự thống nhất trong
cộng đồng quốc tế về giá trị pháp lý, nguồn gốc của nguyên tắc. Do đó, nguyên
tắc pháp luật chung phải phù hợp với nguyên tắc cơ bản của LQT. Hầu như chỉ áp
dụng trong quá trình giải quyết các tranh chấp quốc tế trước các cơ quan tài
phán quốc tế. Chỉ được viện dẫn khi thiếu quy phạm điều ước hoặc tập quán quốc
tế điều chỉnh quan hệ quốc tế này sinh.

4. Vai trò của các nguyên tắc cơ bản của LQT
• Các nguyên tắc cơ bản của LQT là thước đo giá trị hợp pháp của mọi nguyên
tắc, mọi quy phạm pháp luật của LQT.
(VD: Pháp luật quốc tế thừa nhận nguyên tắc "bình đẳng chủ quyền giữa các
quốc gia" trong quan hệ quốc tế, tuy nhiên nước A do có tiềm lực kinh tế,
chính trị mạnh đã dùng ảnh hưởng của mình để tạo áp lực buộc quốc gia B - là
nước đang phát triển phải tiến hành ký kết điều ước quốc tế liên quan đến vấn
đề kinh tế, trong đó ghi nhận lợi ích cho quốc gia A nhiều hơn so với điều ước
này không hợp pháp do vi phạm nguyên tắc cơ bản của LQT).
"B
• Các nguyên tắc cơ bản của LQT là căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp
quốc tế, các nguyên tắc cơ bản của LQT thường được viện dẫn trong hệ thống các
cơ quan của LHQ.
(VD: quốc gia A và B xảy ra xung đột, theo nguyên tắc cơ bản của LQT, 2 bên
không được tự ý sử dụng các biện pháp vũ trang hoặc phi vũ trang để giải quyết
xung đột này, mà phải giải quyết trên cơ sở các biện pháp hòa bình).
• Các nguyên tắc cơ bản của LQT là công cụ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể LQT.
(VD: Khi quốc gia A có hành vi xâm lược đối với quốc gia B, tùy theo mức độ và
tính chất, quốc gia B có quyền tự vệ tương xứng để bảo vệ các quyền và lợi ích
của qupốc gia mình).
Cũng như sự
[ hình thành luật quốc
tế, phạm trù các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là một phạm trù mang tính
xã hội - lịch sử. Nó cũng có quá trình phát sinh, phát triển và hoàn thiện gắn
liền với các giai đoạn hình thành và phát triển của luật quốc tế, căn cứ vào sự
ra đời của các nguyên tắc, luật quốc tế chia chúng ra thành 2 nhóm cơ bản đó
là:
- Nhóm các nguyên tắc truyền thống của luật quốc tế: Đây là các nguyên tắc ra
đời chủ yếu trong thời kỳ trung đại và cận đại, khi các quan hệ quốc tế mới chỉ
dừng lại ở thời kỳ sơ khai và chúng tồn tại chủ yếu dưới dạng các tập quán quốc
tế. Nhóm này gồm 2 nguyên tắc: nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
và nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế (Pacta Sunt
Servanda).
- Nhóm các nguyên tắc hình thành trong luật quốc tế hiện đại: Đây là các nguyên
tắc hình thành trong thời kỳ hiện đại, khi sự hình thành các tổ chức quốc tế và
quá trình hội nhập đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ tại hầu hết các quốc gia trên
thế giới. Nhóm này gồm 5 nguyên tắc sau: nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực hay
dùng vũ lực; nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế; nguyên tắc
không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác; nguyên tắc các quốc gia
có nghĩa vụ hợp tác và nguyên tắc dân tộc tự quyết.
II. CÁC NGUYÊN TẮC TRUYỀN THỐNG
1. Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
- Đây là nguyên tắc được đặt ở vị trí đầu tiên trong số các nguyên tắc được ghi
nhận tại Điều 2 của Hiến chương Liên hợp quốc: "Liên hợp quốc được xây
dựng trên nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của tất cả hội viên". Nguyên tắc
này là xuất phát điểm của toàn bộ hệ thống các nguyên tắc cơ bản của LQT.
- Ngoài Hiến chương LHQ, nguyên tắc này còn được đề cập một cách đầy đủ trong
Tuyên bố về các nguyên tắc cơ bản LQT điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác
giữa các quốc gia ngày 24/10/1970...1và một số văn bản pháp lý quốc tế khác.
a. Sự hình thành nguyên tắc
- Đây là nguyên tắc xuất hiện rất sớm trong đời sống quốc tế. Nó được hình
thành trong thời kỳ loài người chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản
chủ nghĩa, và trở thành nguyên tắc cơ bản của LQT thời kỳ tư bản chủ nghĩa. Tuy
nhiên, cũng giống như các nguyên tắc khác trong thời kỳ đó, nguyên tắc này cũng
chỉ được dùng để điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia nhất định. Hiến pháp
tư sản cũng ghi nhận nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền dân tộc như một tôn chỉ
của mình...Tuy nhiên, trên thực tế giai cấp tư sản không hề tôn trọng nguyên
tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia. Các cuộc đấu tranh đầu thế kỷ 19,
chiến tranh thế giới lần thứ nhất, lần thứ hai...liên tiếp nổ ra nhằm phân chia
lại thị trường thế giới đều là những bằng chứng rõ ràng nhất cho sự vi phạm thô
bạo nguyên tắc này của các nước tư bản thời bấy giờ.
- Năm 1945, sau khi tổ chức Liên hợp quốc ra đời, với tôn chỉ và mục đích gìn
giữ hòa bình và an ninh quốc tế, trong Hiến chương LHQ đã ghi nhận "bình
đẳng chủ quyền giữa các quốc gia" là nguyên tắc cơ bản nhất trong hệ thống
các nguyên tắc cơ bản của LQT và đồng thời cũng là nguyên tắc cơ bản trong hoạt
động của tổ chức quốc tế rộng rãi này.
- Trong quan hệ quốc tế hiện nay, vấn đề bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc
gia đóng vai trò rất quan trọng trong việc thiết lập, xây dựng cũng như duy trì
một trật tự quốc tế trong quan hệ giữa các quốc gia.
b. Nội dung nguyên tắc
*Về khái niệm "Bình đẳng chủ quyền": Chủ quyền là thuộc tính chính
trị-pháp lý vốn có của quốc gia, thể hiện quyền tối thượng của quốc gia trong
lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Trong
phạm vi lãnh thổ của mình, mỗi quốc gia có quyền tối thượng về lập pháp, hành
pháp và tư pháp mà không có bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài, đồng thời
quốc gia được tự do lựa chọn cho mình phương thức thích hợp nhất để thực thi
quyền lực trong phạm vi lãnh thổ. Trong quan hệ quốc tế, mỗi quốc gia có quyền
tự quyết định chính sách đối ngoại của mình mà không có sự áp đặt từ chủ thể
khác trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của mọi quốc Điều này có nghĩa là các quốc gia dù lớn hay
nhỏ,
[gia trong cộng đồng
quốc tế dù giàu hay nghèo đều có quyền
độc lập như nhau trong quan hệ quốc tế. (Lưu ý rằng, sự "bình đẳng"
được đề cập đến trong nguyên tắc này không phải là bình đẳng theo nghĩa
"ngang bằng nhau" về tất cả các quyền và nghĩa vụ, mà được hiểu là
bình đẳng trong quyền tự quyết mọi vấn đề liên quan đến đối nội và đối ngoại
của mỗi quốc gia. Thực tiễn quan hệ quốc tế cho thấy, khả năng tham gia vào các
quan hệ quốc tế của các quốc gia không giống nhau, do đó LQT trong một số
trường hợp đã có những quy phạm nhằm trao cho một số quốc gia nhất định những
quyền đặc biệt mà các quốc gia khác không có (VD: quyền phủ quyết của 5 thành
viên thường trực HĐBA LHQ). Tuy nhiên, việc được hưởng các quyền đặc biệt này
bao giờ cũng đồng nghĩa với việc các quốc gia này phải gánh vác thêm những
nghĩa vụ đặc biệt khác).
* Như vậy, bình đẳng về chủ quyền của quốc gia bao gồm các nội dung:
a. Các quốc gia bình đẳng về mặt pháp lý;
b. Mỗi quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ;
c. Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng quyền năng chủ thể của các quốc gia khác;

d. Sự toàn vẹn lãnh thổ và tính độc lập về chính trị là bất di bất dịch;
e. Mỗi quốc gia có quyền tự do lựa chọn và phát triển chế độ chính trị, xã hội,
kinh tế và văn hóa của mình;
f. Mỗi quốc gia có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ và tận tâm các nghĩa vụ quốc tế
của mình và tồn tại hoà bình cùng các quốc gia khác.
* Theo nguyên tắc này mỗi quốc gia đều có các quyền bình đẳng sau:
a. Được tôn trọng về quốc thể, sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ chính
trị, kinh tế, xã hội và văn hóa;
b. Được tham gia giải quyết các vấn đề có liên quan đến lợi ích của mình;
c. Được tham gia các tổ chức quốc tế, hội nghị quốc tế với các lá phiếu có giá
trị ngang nhau;
d. Được ký kết và gia nhập các điều ước quốc tế có liên quan;
e. Được tham gia xây dựng pháp luật quốc tế, hợp tác quốc tế bình đẳng với các
quốc gia khác;
f. Được hưởng đầy đủ các quyền ưu đãi, miễn trừ và gánh vác các nghĩa vụ như
các quốc gia khác.
c. Ngoại lệ của nguyên tắc
Cùng xem xét ví dụ: Trong việc thông qua những vấn đề thông thường (không thuộc
về thủ tục) 9 lá phiếu này
[của HĐBALHQ phải có 9/15
phiếu thì nghị quyết sẽ được thông qua
là 9 phiếu của bất kỳ thành viên nào của HĐBALHQ (không có sự phân biệt
giữa lá phiếu của ủy viên không thường trực và ủy viên thường trực). Tuy nhiên,
đối với các vấn đề không thông thường (vấn đề liên quan đến thủ tục), trong 9
phiếu này phải có 5 phiếu thuận của 5 ủy viên thường trực của HĐBALHQ mới hợp
lệ. Trong trường hợp có 1 trong 5 ủy viên thường trực phản đối thì nghị quyết
đó sẽ không được thông qua.
câu hỏi đặt ra là: quy định về nguyên
tắc bỏ phiếu trên
[ của
LHQ có tạo ra sự phân biệt đối xử giữa các quốc gia là ủy viên của HĐBA hay
không? và việc "bất bình đẳng" này có vi phạm nguyên tắc "bình
đẳng chủ quyền giữa các quốc gia" không?(đặt ra cho sinh viên thảo luận)
Quy định trên đây không tạo ra sự bất bình đẳng cũng như vi phạm nguyên tắc cơ
bản của LQT, vì trong thực tiễn quan hệ quốc tế, các chủ thể LQT đã thừa nhận
một số trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc này đó là:
Trường hợp các quốc gia tự hạn chế chủ
v quyền của mình: Đây là
trường hợp các quốc gia tự lựa chọn vì lợi ích của chính mình hoặc họ tự hạn
chế chủ quyền của mình bằng cách trao quyền cho 1 thể chế khác (như tổ chức
quốc tế, quốc gia khác...) được thay mặt mình trong các hoạt động liên quan đến
lợi ích của quốc gia. Trong trường hợp này, quốc gia đã tự không vi phạm nguyên
tắc bình đẳng chủ quyền
[nguyện
hạn chế chủ quyền của mình giữa các quốc
gia.
(VD: - Công quốc Mônacô cho phép Pháp thay mặt họ trong mọi quan hệ đối ngoại,
dù nó là một quốc gia độc lập, có chủ quyền.
- Pháp luật quốc tế thừa nhận các quốc gia có quyền tham gia vào các tổ chức
quốc tế, tuy nhiên có một số quốc gia đã tự hạn chế quyền này của mình. Như
trường hợp của Thụy sỹ khi tuyến bố mình là quốc gia trung lập vĩnh viễn. Điều
này đồng nghĩa với việc họ không được tham gia vào bất kỳ tổ chức quốc tế nào
nhằm theo đuổi mục đích quân sự hay các liên minh kinh tế, chính trị trên thế
giới...)
Trường hợp các quốc gia bị hạn chế chủ
quyền: Trường hợp này chỉ đặt ra
v đối
với các chủ thể có hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế, và việc bị
hạn chế chủ quyền là một biện pháp trừng phạt từ phía cộng đồng quốc tế đối với
quốc gia họ.
VD: Irắc tấn công Cô-oét năm 1990-đây là một hành vi vi phạm trắng trợn các
nguyên tắc cơ bản của LQT. Do đó, HĐBA đã tiến hành áp dụng một loạt các biện
pháp cấm vận về kinh tế đối với Irắc.
d. Sự phát triển của nguyên tắc trong quan hệ quốc tế hiện đại
- Hiện nay, trong quá trình quốc tế hóa mọi mặt của đời sống quốc tế, sự ra đời
của các tổ chức quốc tế phổ cập và khu vực đang ngày càng giữ vị trí quan trọng
trong việc phối hợp hoạt động hợp tác của các quốc gia thành viên. Khi tham gia
tổ chức quốc tế, các quốc gia thành viên tự nguyện trao cho tổ chức quốc tế một
số thẩm quyền thuộc chủ quyền của mình. Sự trao quyền này không có nghĩa là
quốc gia bị hạn chế chủ quyền. Quốc gia khi tự nguyện tham gia tổ chức quốc tế,
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của quốc gia thành viên, chịu sự chi phối nhất
định của TCQT...các hoạt động này phải được hiểu là quốc gia đang triển khai
thực hiện chính chủ quyền của mình.
- Trong không gian quốc tế hiện nay, việc tôn trọng nghiêm chỉnh nguyên tắc này
là cơ sở quan trọng để đưa trật tự thế giới phát triển theo xu hướng ngày càng
ổn định, hội nhập và tiến bộ hơn.
2. Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế (Pacta sunt
servanda)
a. Sự hình thành nguyên tắc
- Đây là nguyên tắc có lịch sử lâu đời nhất trong số các nguyên tắc cơ bản của
LQT. Tiền thân của nó là nguyên tắc Tuân thủ điều ước quốc tế xuất hiện từ thời
La mã cổ đại và tồn tại hàng ngàn năm dưới dạng tập quán pháp lý quốc tế trước
khi được ghi nhận chính thức trong điều ước quốc tế.
- Trước khi có LQT hiện đại, nguyên tắc này tồn tại chủ yếu để mang lại lợi ích
cho các nước lớn, bởi vì trước đây điều ước quốc tế thường chứa đựng các quy
phạm mang tính bất bình đẳng do các nước lớn áp đặt cho các nước nhỏ phải ký
kết. Do vậy, tuân thủ chặt chẽ điều ước quốc tế chính là một hình thức hợp pháp
nhất để duy trì lợi ích của các nước lớn.
- Hiện nay, nguyên tắc này tồn tại trong hầu hết các văn bản pháp lý quan trọng
của luật quốc tế, và được ghi nhận chính thức tại khoản 2 điều 2 của Hiến
chương LHQ: "tất cả các thành viên LHQ thiện chí thực hiện các nghĩa vụ do
Hiến chương đặt ra".
b. Nội dung nguyên tắc
* Trong Lời mở đầu của Hiến chương LHQ khẳng định: "Tạo mọi điều kiện cần
thiết để đảm bảo công lý và sự tôn trọng các nghĩa vụ phát sinh từ điều ước
quốc tế và các nguồn khác của luật quốc tế". Theo đó, Công ước Viên năm
1969 chỉ ra rằng "mỗi điều ước quốc tế hiện hành đều ràng buộc các bên
tham gia và đều được các bên thực hiện một cách thiện chí". Ngoài các văn
bản trên, nguyên tắc này còn được ghi nhận một cách chính thức trong Tuyên bố
1970 về các nguyên tắc cơ bản của LQT. Theo đó, mỗi quốc gia phải thiện chí
thực hiện các nghĩa vụ quốc tế do Hiến chương đặt ra, các nghĩa vụ quốc tế phát
sinh từ các quy phạm và nguyên tắc được công nhận rộng rãi của LQT.
* Theo các văn kiện pháp lý quốc tế nêu trên, nguyên tắc này bao gồm các nội
dung chính sau:
- Mọi quốc gia đều có nghĩa vụ thực hiện tự nguyện và có thiện chí, trung thực
và đầy đủ các nghĩa vụ điều ước quốc tế của mình: các nghĩa vụ phát sinh từ
Hiến chương Liên hợp quốc; các nghĩa vụ phát sinh từ các nguyên tắc và quy phạm
được thừa nhận rộng rãi của luật quốc tế; nghĩa vụ theo các đều ước quốc tế mà
quốc gia là thành viên.
- Mọi quốc gia phải tuyệt đối tuân thủ việc thực hiện nghĩa vụ điều ước quốc
tế, tuân thủ một cách triệt để, không do dự.
- Các quốc gia thành viên điều ước quốc tế không được viện dẫn các quy định của
pháp luật trong nước để coi đó là nguyên nhân và từ chối thực hiện nghĩa vụ của
mình.
- Các quốc gia không có quyền ký kết điều ước quốc tế mâu thuẫn với nghĩa vụ
của mình được quy định trong điều ước quốc tế hiện hành mà quốc gia ký kết hoặc
tham gia ký kết trước đó với các quốc gia khác.
- Không cho phép các quốc gia đơn phương ngừng thực hiện và xem xét lại điều
ước quốc tế. Hành vi này chỉ được thực hiện với phương thức đình chỉ và xem xét
hợp pháp theo sự thỏa thuận của các bên là thành viên điều ước.
- Việc cắt đứt quan hệ ngoại giao hay quan hệ lãnh sự giữa các nước thành viên
của điều ước quốc tế không làm ảnh hưởng đến các quan hệ pháp lý phát sinh giữa
các quốc gia này, trừ trường hợp các quan hệ ngoại giao hoặc lãnh sự này là cần
thiết cho việc thực hiện điều ước (Điều 63 Công ước Viên 1969).
c. Ngoại lệ của nguyên tắc
Luật quốc tế đòi hỏi các quốc gia thực hiện tận tâm, có thiện trí và đầy đủ các
nghĩa vụ của điều ước. Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng cho phép các quốc gia có
thể không phải thực hiện điều ước quốc tế mà mình là thành viên trong các
trường hợp sau đây:
Các quốc gia không phải thực hiện
v điều ước quốc tế nếu
trong quá trình ký kết các bên có sự vi phạm pháp luật quốc gia về thẩm quyền
và thủ tục ký kết.
VD: Theo pháp luật Việt Nam điều ước quốc tế chỉ được ký với 2 danh nghĩa nhà
nước và chính phủ. Nếu điều ước nào
không được coi là một điều ước quốc
"được
ký với danh nghĩa của các bộ, ngành tế.
Khi điều ước quốc tế có nội dung trái
với Hiến chương Liên hợp quốc,
v trái
với các nguyên tắc và quy phạm được thừa nhận rộng rãi của luật quốc tế.
(VD: 2 quốc gia ký kết một điều ước quốc tế có nội dung thiết lập chính sách
nhằm phân biệt đối xử giữa các sắc tộc khác nhau...)
Khi có sự vi phạm
v nghiêm trọng của một
bên cam kết thì bên còn lại có quyền từ chối thực hiện, vì nghĩa vụ theo điều
ước quốc tế chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở có đi có lại.
Khi xuất hiện điều khoản
Rebus-sic-stantibus (điều khoản về sự thay
v đổi
cơ bản của hoàn cảnh) dẫn đến các bên không thể tiếp tục thực hiện được điều
ước quốc tế (Điều 62 Công ước Viên 1969). Khi xuất hiện điều khoản này, các
quốc gia có thể viện dẫn để thực hiện 1 trong 3 hành vi sau:
- Chấm dứt hiệu lực hành vi này làm mất hoàn toàn hiệu lực của điều ước quốc
"của
điều ước quốc tế tế.
hành vi này chỉ tạm thời
"- Tạm
đình chỉ hiệu lực của điều ước quốc tế
làm mất hiệu lực của điều ước quốc tế.
- Rút khỏi quan hệ điều ước quốc tế hành vi này không làm chấm dứt hiệu lực
hoàn toàn của điều ước quốc tế. Điều
" ước
quốc tế chỉ mất hiệu lực với quốc gia viện dẫn điều khoản Rebus-sic-stantibus,
nó vẫn có hiệu lực đối với các quốc gia thành viên khác của điều ước.
+ Hoàn cảnh bị thay đổi được ghi nhận trong điều 62 Công ước Viên 1969 phải là
cơ sở chủ yếu tạo nên sự thỏa thuận của các bên; hoàn cảnh này các bên không
thể thấy trước (dự liệu trước) vào thời điểm ký kết điều ước quốc tế.
+ Sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh được hiểu là: hoàn cảnh đó bị xáo trộn lớn
đến mức làm biến đổi một cách cơ bản phạm vi của những nghĩa vụ mà các bên sự thay đổi này vượt ra khỏi tầm kiểm soát
"vẫn
còn phải thi hành theo điều ước các bên
không thể tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình trong quan
"của
các bên hệ điều ước. Tuy nhiên, trong
một số trường hợp nhất định, sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh sẽ không thể được
nêu lên làm lý do để chấm dứt hoặc rút khỏi quan hệ điều ước nếu đó là điều ước
liên quan đến việc thiết lập biên giới quốc gia; hoặc sự thay đổi đó là kết quả
của một sự vi phạm nghiêm trọng của chính bên nêu lên nó. Trong trường hợp này,
bên còn lại có thể viện dẫn chính điều khoản Rebus-sic-stantibus để giải thoát
mình khỏi các nghĩa vụ trong cam kết mà không bị coi là vi phạm nguyên tắc
Pacta sunt servanda. Tuy nhiên, việc áp dụng điều khoản Rebus-sic-stantibus
phải được thông báo cho bên kia biết.
Câu hỏi:
[ điều khoản Rebus-sic-stantibus không được đặt ra với các điều
ước liên quan đến việc thiết lập biên giới quốc gia, trên thực tế, các điều ước
về biên giới có thể được thay đổi hay không? trong trường hợp nào? Các điều ước
thiết lập biên giới có thể được thay đổi nếu các bên có sự thỏa thuận.
III. CÁC NGUYÊN TẮC HÌNH THÀNH TRONG LUẬT QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI
1. Nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực hay dùng vũ lực
a. Sự hình thành nguyên tắc
- Luật quốc tế trong thời kỳ cổ đại người ta coi chiến tranh là một phương tiện
hữu hiệu để giải quyết mọi xung đột, mọi tranh chấp quốc tế. Nó được thừa nhận
như "quyền" của mỗi quốc gia, dân tộc -"quyền được tiến hành
chiến tranh".
- Công ước Lahaye năm 1899 về hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế và Công
ước năm 1907 về hạn chế sử dụng vũ lực đối với quốc gia vi phạm cam kết quốc tế
là những công ước quốc tế toàn cầu đầu tiên đã không coi việc tiến hành chiến
tranh là quyền của quốc gia, nhưng cũng chưa đưa ra quy định ngăn cấm chiến
tranh, mà chỉ kêu gọi các quốc gia "với khả năng có thể" thì ngăn ngừa
nguy cơ dùng vũ lực. Như vậy, trước chiến tranh thế giới thứ 2 những quy định
về việc không sử dụng chiến tranh chỉ là những quan điểm, ý tưởng và chưa trở
thành nguyên tắc mang tính bắt buộc chung .
- Sự ra đời của Liên hợp quốc với bản Hiến chương của mình được đánh giá rất
cao vì mục đích giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế. Tại khoản 4 điều 2 của
Hiến chương này quy định rằng: "Trong quan hệ quốc tế, các hội viên Liên
hợp quốc không được có hành động đe dọa bằng vũ lực hay dùng vũ lực để chống
lại quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nến độc lập chính trị của bất cứ một
nước nào, hoặc bằng cách này hay cách khác làm trái với những mục đích của Liên
hợp quốc". Tuy nhiên, với quy định trên đây, Hiến chương Liên hợp quốc mới
chỉ dừng lại ở việc đưa ra tên gọi của nguyên tắc này, còn việc giải thích định
nghĩa như thế nào là "vũ lực" và "đe dọa dùng vũ lực" trong
quan hệ quốc tế lại phụ thuộc đặt ra
"vào
cách hiểu của các quốc gia . Điều này tạo ra sự giải thích khác nhau yêu cầu phải xây dựng hệ thống các nguyên tắc
và có sự giải thích thống nhất nguyên tắc trong cộng đồng quốc tế.
- Năm 1970 các quốc gia trong Liên hợp quốc đã ký kết một điều ước quốc tế về
hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, trong đó giải thích rất rõ thế
nào là "vũ lực", thế nào là "đe dọa dùng vũ lực".
b. Nội dung nguyên tắc
* Các văn kiện pháp lý quốc tế ghi nhận nguyên tắc:
- Tuyên bố của đại hội đồng liên hợp quốc năm 1970 về các nguyên tắc cơ bản của
LQT;
- Tuyên bố của đại hội đồng liên hợp quốc năm 1974 về định nghĩa xâm lược;
- Định ước Henxinki năm 1975 về an ninh và hợp tác của các nước châu Âu;
- Tuyên bố của liên hợp quốc năm 1987 về "nâng cao hiệu quả của nguyên tắc
khước từ đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế".
* Định ước Henxinki năm 1975 quy định các quốc gia tham gia sẽ "khước từ
mọi biện pháp mang tính cưỡng bức đối với quốc gia, thành viên khác, khước từ
tiến hành hành vi cưỡng bức về kinh tế". Như vậy, khái niệm "vũ
lực" theo luật quốc tế hiện đại không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ là sử
dụng hoặc đe dọa sử dụng lực lượng vũ trang để chống lại chủ quyền, độc lập của
quốc gia khác mà còn mở rộng việc nghiêm cấm sử dụng các sức mạnh hay đe dọa
dùng sức mạnh phi vũ trang2trong quan hệ quốc tế. Nội dung của nguyên tắc này
như sau:
- Cấm xâm chiếm lãnh thổ quốc gia khác trái với các quy phạm của luật quốc tế;
- Cấm các hành vi trấn áp bằng vũ lực;
- Không được cho quốc gia khác sử dụng lãnh thổ nước mình để tiến hành xâm lược
chống quốc gia thứ ba;
- Không tổ chức, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội chiến hay các hành vi
khủng bố tại quốc gia khác;
- Không tổ chức hoặc khuyến khích việc tổ chức các băng nhóm vũ trang, lự lượng
vũ trang phi chính quy, lính đánh thuê để đột nhập vào lãnh thổ quốc gia khác.
c. Ngoại lệ của nguyên tắc
Câu hỏi đặt ra: Vậy, có khi nào việc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế được
cho là hợp pháp hay không? đó là các trường hợp nào? Có, nếu việc sử dụng lực
lượng vũ trang rơi vào 1 trong các ngoại lệ sau đây của nguyên tắc:
Các quốc gia có quyền sử dụng
v lực lượng vũ trang để
thực hiện quyền tự vệ hợp pháp, kể cả việc sử dụng biện pháp quân sự nhưng phải
tuân thủ nguyên tắc tương xứng.
- Cơ sở pháp lý: Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc quy định"Không một điều
khoản nào trong Hiến chương này làm thiệt hại đến quyền tự vệ cá thể hay tập
thể một cách chính đáng, trong trường hợp hội viên Liên hợp quốc bị xâm lược vũ
trang, cho đến khi Hội đồng bảo an ấn định những biện pháp cần thiết để duy trì
hòa bình và an ninh quốc tế. Những biện pháp do các hội viên thi hành trong
việc thực hiện quyền tự vệ chính đáng ấy phải được báo ngay cho Hội đồng bảo an
biết và không được ảnh hưởng đến quyền hạn và nhiệm vụ của Hội đồng bảo an, mà
theo Hiến chương này Hội đồng bảo an có thể bất cứ lúc nào áp dụng những hành
động xét thấy cần thiết để duy trì và khôi phục hòa bình và an ninh quốc
tế".
Như vậy, Hiến chương
[ LHQ thừa nhận quyền tự
vệ chính đáng của các quốc gia, nhưng lại không đưa ra khái niệm thế nào là một
hành vi "xâm lược". Theo Nghị quyết 3314 của Đại hội đồng LHQ năm
1974 về định nghĩa xâm lược thì, xâm lược là việc một nước sử dụng lực lượng vũ
trang tấn công, vi phạm đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hoặc nền độc lập chính
trị của một nước khác, hoặc "dưới bất kỳ hình thức nào khác". Nghị
quyết đặt ra một danh sách không giới hạn những hành vi bị coi là xâm lược;
đồng thời nghị quyết này cũng trao cho HĐBA quyền được quyết định có hay không
hành vi xâm lược trong các tình huống cụ thể.
- Tự vệ như thế nào được coi là hợp pháp? Theo điều 51 Hiến chương Liên hợp
quốc thì tiêu chí để xác định hành vi tự vệ hợp pháp là: có hành động tấn công
vũ trang. Nếu hành vi tự vệ xảy ra sau khi
tự vệ hợp pháp, nếu hành vi tự vệ xảy ra trước
"
hành động tấn công vũ trang tự vệ bất
hợp pháp.
"khi có
hành động tấn công vũ trang
- Quyền tự vệ hợp pháp của quốc gia được thực hiện với điều kiện: quốc gia đó
bị tấn công vũ trang trước; mức độ thực hiện tự vệ phải tương xứng với hành vi
vi phạm, nếu vượt quá mức độ vi phạm thì hành vi tự vệ đó không được coi là tự
vệ hợp pháp.
- Ngoài các vấn đề trên, Điều 51 Hiến chương cũng quy định, quyền tự vệ chính
đáng của cá nhân hay tập thể chỉ được sử dụng "cho đến khi Hội đồng bảo an
ấn định những biện pháp cần thiết để duy trì hòa bình và an ninh quốc
tế...".
Như
[ vậy,
theo tinh thần của Hiến chương LHQ, quyền tự do hành động của quốc gia trong
phạm vi tự vệ chính đáng chỉ là tạm thời. Một khi HĐBA đã quyết định hành động
thì vụ việc đó sẽ được đặt dưới quyền quyết định của cơ quan này. Trong thực
tiễn quan hệ quốc tế, quyền tự vệ chính đáng là cách duy nhất cho phép các quốc
gia được sử dụng vũ lực một cách hợp pháp. Do đó, sự can thiệp của HĐBA trong
trường hợp này được coi như một cơ chế kiểm soát hữu hiệu nhằm tránh việc lạm
dụng vũ lực từ phía các quốc gia. Tuy nhiên, sự can thiệp này chỉ thực sự có
tác dụng khi các nước lớn thỏa thuận cùng nhau hành động nhằm ngăn chặn việc sử
dụng vũ lực.
Các dân tộc thuộc địa được phép sử dụng
tất cả các biện pháp
v để
đấu tranh giành quyền tự quyết, kể cả các biện pháp quân sự nhưng phải tuân thủ
các quy định của luật quốc tế.
Cộng đồng quốc tế có quyền áp dụng các
v biện pháp trừng phạt,
kể cả các biện pháp quân sự đối với các chủ thể có hành vi vi phạm nghiêm trọng
luật quốc tế.
2. Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế
a. Sự hình thành nguyên tắc
Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc này gắn liền với sự hình thành và
phát triển của nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực và dùng vũ lực trong quan hệ
quốc tế và là hệ quả tất yếu của nguyên tắc này.
- Trong thực tiễn quốc tế, tranh chấp luôn là khả năng tiềm ẩn phát sinh từ các
mối quan hệ giữa các quốc gia. Đó là hoàn cảnh cụ thể mà trong đó các chủ thể
luật quốc tế có những quan điểm trái ngược hoặc mâu xung đột, mâu thuẫn.
" không
thống nhất được về quyền và lợi ích
"thuẫn
nhau
- Trong hệ thống Công ước Lahay 1899 và 1907 có Công ước về hòa bình giải quyết
xung đột quốc tế, là công ước đa phương đầu tiên đề cập đến vấn đề quan trọng
này. Tuy nhiên, Công ước mới chỉ đưa ra lời kêu gọi các quốc gia tự nguyện thực
hiện các biện pháp trung gian, hòa giải trước khi dùng vũ lực.
- Quy chế Hội quốc liên ở mức độ nhất định đã đưa ra quyền của các quốc gia
dùng chiến tranh như là phương tiện giải quyết tranh chấp, lần đầu tiên đã xác
định nghĩa vụ của các quốc gia giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hoà bình
như giải quy định này không mang
"quyết
ở tòa án hoặc đưa ra hội đồng của Hội quốc liên
tính chất là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc của mọi quốc gia. Và việc giải
quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình chỉ được coi là khả năng có thể xảy
ra khi có tranh chấp mà thôi.
- Liên hợp quốc cùng với bản Hiến chương của mình lần đầu tiên đã nâng vấn đề
giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế lên thành nguyên tắc trong quan hệ
giữa các quốc gia. Khoản 3 điều 2 Hiến chương ghi nhận "Hội viên Liên hợp
quốc giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng phương pháp hòa bình, làm
thế nào khỏi nguy hại đến hòa bình và an ninh quốc tế cũng như đến công
lý".
b.Nội dung nguyên tắc
* Thế nào là " tranh chấp quốc tế"? luật quốc tế chưa có một định
nghĩa chính xác về tranh chấp quốc tế được thừa nhận rộng rãi, nhưng đa số các
tác giả đều cho rằng tranh chấp quốc tế là những vấn đề phát sinh giữa các chủ
thể luật quốc tế và những bất đồng về các vấn đề cơ bản của quan hệ quốc tế.
- Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế được ghi nhận lần đầu tiên
trong Hiến chương liên hợp quốc và được khẳng định rõ ràng trong Tuyên bố năm
1970, trong đó chỉ rõ "mỗi quốc gia giải quyết tranh chấp quốc tế của mình
với các quốc gia khác bằng phương pháp hòa bình để không dẫn đến đe dọa hòa
bình, an ninh quốc tế và công bằng".
* Các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp: Điều 33 Hiến chương liên hợp
quốc đã quy định cụ thể các biện pháp hòa bình mà các bên tranh chấp có thể lựa
chọn, đó là các con đường : "... đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải,
trọng tài, tòa án, sử dụng các tổ chức hoặc các hiệp định khu vực, hoặc bằng
các biện pháp hòa Như vậy, hòa bình giải quyết các tranh
"bình
khác tùy theo sự lựa chọn của mình" chấp quốc tế là nghĩa vụ bắt buộc đối
với mọi quốc gia - thành viên của cộng đồng quốc tế. Các bên có quyền tự do lựa
chọn các biện pháp phù hợp nhất, sao cho mọi tranh chấp đều được giải quyết
trên cơ sở luật quốc tế và nguyên tắc công bằng. Thực tiễn cho thấy, phương pháp
đàm phán là phương pháp thường xuyên được các quốc gia sử dụng để giải quyết
các tranh chấp hoặc bất đồng với nhau.
c. Ngoại lệ của nguyên tắc
- Đây là một nguyên tắc không tồn tại bất kỳ ngoại lệ nào.
- Hội đồng bảo an Liên hợp quốc luôn phải tôn trọng biện pháp giải quyết hòa
bình mà các bên lựa chọn. Trong trường hợp các bên tự lựa chọn mà vẫn không
giải quyết triệt để vấn đề, hội đồng bảo an có quyền kiến nghị các bên áp dụng
các biện pháp khác nhằm nhanh chóng chấm dứt những mối đe dọa.
d. Thực tiễn vận dụng nguyên tắc
Cùng với quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, với việc tham gia tích cực vào
các tổ chức quốc tế, hiện nay cộng đồng quốc tế đang dần thừa nhận vai trò cũng
như tính hiệu quả của các biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua cơ chế giải
quyết tranh chấp của các tổ chức quốc tế như: EU, Asean, liên hợp quốc...
3. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác.
a. Sự hình thành
- Xuất hiện trong thời kỳ cách mạng tư sản, với "mầm mống" là quy
định trong bản Hiến pháp của Nhà nước tư sản Pháp, đó là "nước Pháp không
can thiệp vào các công việc nội bộ của quốc gia khác và không cam chịu để các
quốc gia khác can thiệp vào công việc nội bộ của mình". Tuy nhiên, những
quy định liên quan đến vấn đề này thời kỳ đó còn rất nhiều hạn chế, chưa được
thừa nhận rộng rãi là nguyên tắc chung của cộng đồng quốc tế.
- Khi tổ chức Liên hợp quốc ra đời, Hiến chương của tổ chức này đã cụ thể hóa
nội dung của nguyên tắc tại khoản 7 điều 2, đồng thời nghĩa vụ này cũng được
đặt ra cho tất cả các thành viên của cộng đồng quốc tế.
- Dưới tác động mạnh mẽ của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, trong
khuôn khổ Liên hợp quốc, Nghị quyết về nguyên tắc "không can thiệp vào
công việc nội bộ" được thông qua năm 1965 với việc "tuyên bố cấm can
thiệp vào công việc nội bộ, bảo vệ độc lập và chủ quyền của các quốc gia".
Đến nay, nguyên tắc này còn được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế
quan trọng khác như: Tuyên bố của liên hợp quốc về trao trả độc lập cho các
nước và các dân tộc thuộc địa năm 1960, Tuyến bố cuối cùng của hội nghị các
nước Á Phi năm 1955 tại Băng-đung, Định ước Henxinki năm 1975, Hiệp ước Giơnevơ
năm 1954 về Việt Nam, Hiệp định Pari năm 1973 về lập lại hòa bình tại Việt
nam...
b. Nội dung nguyên tắc
* Khái niệm "công việc nội bộ" của mỗi quốc gia: công việc nội bộ của
mỗi quốc gia là công việc nằm trong thẩm quyền giải quyết của mỗi quốc gia độc
lập xuất phát từ chủ quyền của mình, đó là quyền tối thượng của quốc gia trong
phạm vi lãnh thổ của mình (như: quyền tự do lựa chọn, tự do xây dựn và phát
triển chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân; quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp...) và quyền độc lập trong quan
hệ quốc tế (như: quyền độc lập thiết lập mối quan hệ với bất kỳ quốc gia nào,
quyên tự do tham gia vào các tổ chức quốc tế khu vực và phổ cập...).
* Thế nào là can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác? Việc can thiệp
vào công việc nội bộ của quốc gia khác được thực hiện theo 2 cách là can thiệp
trực tiếp và can thiệp gián tiếp.
- Can thiệp trực tiếp là việc một (hoặc một nhóm) quốc gia dùng áp lực quân sự,
chính trị, kinh tế...và các biện pháp khác nhằm khống chế quốc gia khác trong
việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền nhằm ép buộc quốc gia đó phụ thuộc vào
mình.
- Can thiệp gián tiếp là các biện pháp quân sự, kinh tế...do quốc gia tổ chức,
khuyến khích các phần tử phá hoại hoặc khủng bố nhằm vào mục đích lật đổ chính
quyền hợp pháp của quốc gia khác hoặc gây mất ổn định cho tình hình chính trị,
kinh tế, xã hội của nước này.
VD: hành vi giúp đỡ tài chính, cung cấp vũ khí, huấn luyện đào tạo các băng
đảng vũ trang nhằm lật đổ chính quyền của quốc gia khác.
* Nội dung của nguyên tắc: Nguyên tắc này không cho phép bất kỳ quốc gia nào dù
lớn hay nhỏ, dù giàu hay nghèo, dù văn minh hay lạc hậu được quyền can thiệp
vào các lĩnh vực thuộc thẩm quyền riêng biệt của mỗi quốc gia, xuất phát từ chủ
quyền của mình. Cụ thể:
- Cấm can thiệp vũ trang và các hình thức can thiệp hoặc đe dọa can thiệp khác
nhằm chống lại chủ quyền, nền tảng chính trị, văn hóa-xã hội của quốc gia;
- Cấm dùng các biện pháp kinh tế, chính trị và các biện pháp khác để bắt buộc
quốc gia khác phụ thuộc vào mình;
- Cấm tổ chức, khuyến khích các phần tử phá hoại hoặc khủng bố nhằm lật đổ
chính quyền của quốc gia khác;
- Cấm can thiệp vào cuộc đấu tranh nội bộ của quốc gia khác;
- Tôn trọng quyền của mỗi quốc gia tự do lựa chọn chế độ chính trị, kinh tế,
văn hóa-xã hội không có sự can thiệp từ phía các quốc gia khác.
c. Ngoại lệ của nguyên tắc:
Hiện nay, do quá trình toàn cầu diễn ra ngày càng mạnh mẽ nên ranh giới giữa
công việc nội bộ thuộc thẩm quyền mỗi quốc gia và công việc có sự tham gia của
cộng đồng quốc tế trong nhiều trường hợp không độc lập hoàn toàn với nhau mà có
sự đan xen nhất định (VD: vấn đề nhân quyền, nhân đạo, môi trường...). Về
nguyên tắc, LQT không điều chỉnh những vấn đề thuộc thẩm quyền nội bộ của mỗi
quốc gia. Do đó, mọi biện pháp được sử dụng nhằm cản trở việc thực hiện công
việc nội bộ của quốc gia đều bị coi là vi phạm LQT. Tuy nhiên, trên thực tế,
các chủ thể LQT lại thừa nhận việc can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia
khác trong các trường hợp sau:
Khi có xung đột vũ trang xảy ra trong
nội bộ của quốc gia: về nguyên tắc,
v cộng
đồng quốc tế sẽ không có quyền can thiệp. Tuy nhiên, nếu cuộc xung đột này đạt
đến mức độ nghiêm trọng, và có thể gây ra mất ổn định trong khu vực, đe dọa hoà
bình và an ninh quốc tế, thì cộng đồng quốc tế - thông qua Hội đồng bảo an Liên
hợp quốc - được quyền can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào cuộc xung đột hành
động này không bị coi là vi phạm nội dung của nguyên tắc "không can
[này thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia
khác".
Khi có hành vi vi phạm
v nghiêm trọng các quyền
cơ bản của con người, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hòa bình và an ninh quốc
tế.
VD: Nam Phi cũ: việc thiết lập chủ nghĩa phân biệt Đây là công việc nội bộ của Nam Phi. Tuy
nhiên, việc thực
"chủng
tộc Apacthai hiện chính sách phân biệt
chủng tộc, thực hiện tội ác diệt chủng là vô cùng dã Cộng đồng quốc
"man,
vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế về quyền con người tế đã lên tiếng và áp dụng các biện pháp cần
thiết để "can thiệp" phù hợp và ngăn cản chính sách này của Nam Phi.
Có sự thỏa thuận của các bên liên
v quan.
4. Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác
a. Sự hình thành nguyên tắc
- Xu thế tất yếu của tiến trình phát triển quan hệ quốc tế hiện nay là sự hội
nhập, hợp tác trên cơ sở các bên cùng có lợi. Sự hợp tác giữa các quốc gia
trong tất cả các lĩnh vực không phụ thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế, xã hội
và nhằm duy trì hòa bình, an ninh quốc tế đã được pháp luật hóa trong các văn
bản pháp lý quốc tế quan trọng.
- Ý tưởng về sự hợp tác giữa các quốc gia lần đầu tiên được tthể hiện trong
khoản 3 điều 4 Hiến chương LHQ, rằng một trong những mục đích của tổ chức là
"thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn để quốc tế
kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo, khuyến khích và phát triển dsự tôn trọng
các quyền của con người và tự do cơ bản cho tất cả mọi ngừoi không phjân biệt chủng
tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo". Mặc dù Hiến chương LHQ không ghi
nhận nghĩa vụ các quốc gia phải hợp tác với nhau như 1 trong những nguyên tắc
cơ bản của LQT, nhưng trong nhiều điều khoản của Hiến chương lại nhắc đến sự
hợp tác giữa các quốc gia như là nguyên tắc tồn tại của cộng đồng quốc tế.
- Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng LHQ về các nguyên tắc của LQT đã mở rộng
nội dung pháp lý của nguyên tắc này, theo đó "các quốc gia có nghĩa vụ hợp
tác với nhau trong các lĩnh vực của quan hệ quốc tế không phụ thuộc vào hệ
thống chính trị, kinh tế và văn hóa, nhằm mục đích duy trì hoà bình, an ninh
quốc tế và góp phần vào việc ổn định kinh tế thế giới, vì sự phồn vinh chung
của các dân tộc và hợp tác quốc tế".
b. Nội dung nguyên tắc
* Theo nguyên tắc này, các quốc gia có nghĩa vụ tiến hành hợp tác quốc tế để
giải quyết các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội và nhân đạo trong phạm vi quốc
tế, đồng thời duy trì hòa bình và an ninh quốc tế bằng cách tiến hành các biện
pháp tập thể có hiệu quả. Điều 55 của Hiến chương quy định, các quốc gia thành
viên có nghĩa vụ hợp tác với nhau, đồng thời có nghĩa vụ hợp tác với các tổ
chức quốc tế nhằm mục đích thực hiện tôn chỉ, mục tiêu của chúng.
VD: Sau cuộc tấn công thảm khốc ngày 11/9/2001 tại Mỹ, do tính chất nguy hiểm
và mức độ ảnh hưởng của nó đến hòa bình và an ninh quốc tế, ngày 12/9/2001 dưới
sự chủ tọa của Pháp, HĐBA đã họp và thông qua Nghị quyết 1368, trong đó HĐBA
thừa nhận "quyền tự vệ cá nhân hay tập thể phù hợp với Hiến chương..., cực
lực lên án các cuộc tấn công khủng bố kinh hoàng diễn ra hôm 11 tháng 9 năm
2001...và coi những hành động này là mối đe dọa đối với hòa bình và an ninh
quốc tế". HĐBA đã đưa ra lời kêu gọi các quốc gia phải hợp tác với nhau để
đưa những kẻ chủ mưu ra xét xử, đồng thời các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác chặt
chẽ với nhau trong việc cảnh báo và loại trừ các hành động khủng bố diễn ra
trong cộng đồng quốc tế.
- LQT không quy định các hình thức và mức độ hợp tác cụ thể dành cho các quốc
gia trong quan hệ quốc tế. Hình thức và mức độ hợp tác này hoàn toàn phụ thuộc
vào chính quyết định của các quốc gia xuất phát từ tình hình thực tế và năng
lực của mỗi quốc gia.
VD: Trong khuôn khổ EU, trên cơ sở bình đẳng và tự nguyện, các quốc gia đã đạt
được mức độ hợp tác cao nhất trong hầu hết các lĩnh vực. Nhắc đến EU, người ta
thường nhắc đến một liên minh thống nhất, giữa các quốc gia thành viên của nó
gần như không tồn tại đường biên giới quốc gia.
* Theo Tuyên bố năm 1970 nội dung của nguyên tắc này bao gồm:
- Quốc gia phải hợp tác với các quốc gia khác trong việc duy trì hòa bình và an
ninh quốc tế;
- Các quốc gia phải hợp tác để khuyến khích sự tôn trọng chung và tuân thủ
quyền con người và các quyền tự do cơ bản khác của cá nhân, thủ tiêu các hình
thức phân biệt tôn giáo, sắc tộc, chủng tộc;
- Các quốc gia phải tiến hành quan hệ quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, xã hội,
văn hóa, thương mại và kỹ thuật, công nghệ theo các nguyên tắc bình đẳng về chủ
quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
- Các quốc gia thành viên LHQ phải thực hiện các hành động chung hay riêng
trong việc hợp tác với LHQ theo quy định của Hiến chương;
- Các quốc gia phải hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa, khoa
học, công nghệ nhằm khuyến khích sự tiến bộ về văn hóa, giáo dục, phát triển
kinh tế trên toàn thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Như vậy, khi quy định
[ nghĩa vụ hợp tác của
các quốc gia trong những vấn đề chung, Tuyên bố năm 1970 đã đặc biệt nhấn mạnh
đến sự hợp tác quốc tế nhằm thúc đẩy tư tưởng, kinh tế của các nước đang phát
triển; đồng thời xác lập việc hợp tác giữa các quốc gia vừa là quyền nhưng cũng
là nghĩa vụ của họ trong quan hệ quốc tế.
5. Nguyên tắc dân tộc tự quyết
a. Sự hình thành nguyên tắc
- Tôn trọng quyền của các dân tộc được tự do lựa chọn con đường và hì
https://tuvanluat.forumvi.net

Thích

Báo xấu [0]

Gửi một bình luận lên tường nhà Admin

Back to topMessage [Page 1 of 1]

« Xem bài trước | Xem bài kế tiếp »

Bài viết mới cùng chuyên mục

      Quyền hạn của bạn:

      You cannot reply to topics in this forum