Tên đăng nhập: Mật khẩu: Đăng ký || Quên mật khẩu
Lê Nhật Bảo's forum

Tư vấn pháp lý

TƯ VẤN PHÁP LÝ CHUYÊN NGHIỆP 24/24 LIÊN HỆ: 01688793966 MR. Lê Nhật Bảo.

You are not connected. Please login or register

Go downMessage [Page 1 of 1]

Sat Apr 14, 2012 8:53 pm
Admin
Admin

I. KHÁI NIỆM
1. Định nghĩa
- Khác với các chủ thể thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật quốc gia, các
chủ thể của luật quốc tế không xuất hiện tại cùng một thời điểm với nhau. Khi
tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế, do tính chất quyền năng chủ thể
khác nhau nên vai trò của các chủ thể luật quốc tế cũng khác nhau. Về cơ bản,
việc xác định một thực thể là chủ thể của luật quốc tế có một số dấu hiệu sau:
- Có sự tham gia vào các quan hệ quốc tế do luật quốc tế điều chỉnh
- Có ý chí độc lập (không phụ thuộc vào các chủ thể khác) trong sinh hoạt quốc
tế;
- Có đầy đủ quyền và nghĩa vụ riêng biệt đối với các chủ thể khác thuộc phạm vi
điều chỉnh của luật quốc tế;
- Có khả năng gánh vác những trách nhiêm pháp lý quốc tế do những hành vi mà
chủ thể đã thực hiện gây ra.
Căn cứ vào các dấu hiệu nêu trên, có thể
thấy: Chủ thể luật quốc tế là
[ những
thực thể độc lập tham gia vào những quan hệ do luật quốc tế điều chỉnh, có đầy
đủ các quyền, nghĩa vụ và khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế từ
những hành vi mà chính chủ thể thực hiện.
- Như đã tìm hiểu tại Chương 1, chúng ta biết rằng chủ thể của luật quốc tế bao
gồm: Quốc gia, tổ chức quốc tế, dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự
quyết, và một số thực thể đặc biệt khác. Trong đó, quốc gia được xác định là
chủ thể truyền thống và phổ biến nhất của luật quốc tế.
* Phân loại chủ thể LQT
Căn cứ vào nội dung quyền năng chủ thể, các chủ thể luật quốc tế được phân
thành:
- Chủ thể cơ bản của luật quốc tế là quốc gia
- Chủ thể phái sinh là các tổ chức quốc tế liên chính phủ
- Chủ thể quá độ là các dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết.
2. Quyền năng chủ thể luật quốc tế
- Quyền năng chủ thể luật quốc tế là những phương diện thể hiện khả năng pháp
lý đặc trưng của những thực thể pháp lý được hưởng những quyền và gánh vác
những nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý trong quan hệ quốc tế theo quy định của
LQT. có thể xem xét quyền năng chủ thể này theo 2 góc độ:
+ Về lý luận: Là thuộc tính chủ quyền gắn với địa vị pháp lý quốc tế của quốc
gia trong các quan hệ pháp lý quốc tế, tạo nên sự phân biệt về địa vị pháp lý
của quốc gia với chủ thể do quốc gia tạo ra là tổ chức quốc tế liên quốc gia
(liên chính phủ).
+ Về pháp lý: Quốc gia, tổ chức quốc tế và dân tộc đang đấu tranh giành độc lập
được thừa nhận là những thực thể có những quyền và nghĩa vụ quốc tế cơ bản xuất
phát từ chính khả năng thực tế của những thực thể này khi tham gia vào các quan
hệ pháp lý quốc tế.
Nhận xét:Trong
[ tất cả các chủ thể nêu
trên, quốc gia được xác định là loại chủ thể đặc biệt với đặc trưng nổi bật là
sự tồn tại có tính quyết định của yếu tố chủ quyền. Chủ quyền đem lại cho quốc
gia vị trí trung tâm của mọi mối quan hệ pháp lý quốc tế, là chủ thể tự xác
định phạm vi quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý quốc tế cho chính mình và
cho các chủ thể hay thực thể khác. Vì vậy, sự tham gia của các chủ thể khác vào
quan hệ pháp luật quốc tế đều bị chi phối, ảnh hưởng bởi vai trò trung tâm của
quốc gia.
II. QUỐC GIA - CHỦ THỂ CƠ BẢN CỦA LUẬT QUỐC TẾ
1. Quốc gia và những yếu tố cấu thành quốc gia
(Câu hỏi: Quốc gia được cấu thành từ những yếu tố nào?)
Quốc gia là một phần tạo nên cộng đồng quốc tế, hiện nay trong khoa học pháp lý
quốc tế chưa có một định nghĩa thống nhất được chấp nhận chung về thuật ngữ
"quốc gia". Tuy nhiên, tại điều 1 Tuyên bố Montevideo về quyền và
nghĩa vụ của các quốc gia được thông qua tại Hội nghị quốc tế các nước châu Mỹ
ngày 27/12/1933 có đưa ra một vài yếu tố chính dẫn đến sự hình thành quốc gia,
đó là:
- Thứ nhất, có lãnh thổ xác định: đây là dấu hiệu cơ bản nhất hình thành quốc
gia. Không tồn tại lãnh thổ thì không thể có quốc gia. Lãnh thổ quốc gia được
xác định là một phần của trái đất và được coi là cơ sở vật chất cho sự tồn tại
và phát triển của quốc gia. Lãnh thổ quốc gia là ranh giới để xác định chủ
quyền quốc gia đối với dân cư của mình. Vấn đề kích thước lãnh thổ rộng hay
hẹp, địa hình thuận lợi hay bất lợi đều không có ý nghĩa quyết định đến sự tồn
tại hay mất đi của danh nghĩa quốc gia.
- Thứ hai, có cộng đồng dân cư ổn định: Theo nghĩa rộng, dân cư của một quốc
gia là tất cả những người sinh sống trên lãnh thổ một quốc gia nhất định và
tuân theo pháp luật của nhà nước đó. Theo nghĩa hẹp, dân cư dùng để chỉ tất cả
những người có quốc tịch của quốc gia đó.Mối quan hệ pháp lý ràng buộc giữa nhà
nước với cộng đồng dân cư của quốc gia chủ yếu thông qua chế định quốc tịch.
- Thứ ba, có chính phủ với tư cách là người đại diện cho quốc gia trong quan hệ
quốc tế. Chính phủ này phải là chính phủ thực thi một cách có hiệu quả quyền
lực nhà nước trên phần lớn hoặc toàn bộ lãnh thổ quốc gia một cách độc lập,
không bị chi phối, khống chế bởi quốc gia khác.
- Thứ tư, có khả năng độc lập tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế:
"khả năng" này có được xuất phát từ chủ quyền quốc gia khi thực hiện
chức năng đối ngoại của mình.
Cùng phân tích ví dụ: Hiện nay, có rất nhiều quan điểm cho rằng Vaticang là
quốc gia nhỏ nhất thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế Vaticăng không phải là một
quốc gí độc lập theo đúng nghiã. Nhìn dưới góc độ các yếu tố cấu thành ta thấy:
Tòa thánh Vaticăng có lãnh thổ xác dịnh với diện tích rất nhỏ khoảng 0,4km2 và
nằm trọn trong lãnh thổ của Italia, có dân cư sinh sống khoảng 1000 người, có
bộ máy điều hành, có khả năng tham gia một cách độc lập vào các quan hệ pháp
luật quốc tế nhất định (Tòa thánh Vaticăng đã tham gia một số công ước quốc tế
như: Công ước Viên 1961 về thiết lập quan hệ ngoại giao, tòa thánh còn tham gia
với tư cách quan sát viên của một số tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc...).
Nhìn vào hình thức bên ngoài, Tòa thánh giống như một quốc gia tồn tại độc lập,
nhưng nếu xem xét sâu xa các yếu tố này, Vaticăng lại không phải một quốc gia,
vì:
+ Về lãnh thổ mà Vaticăng đặt trụ sở thực chất thuộc về Italia, Vaticăng có
được lãnh thổ này là do một điều ước quốc tế được ký kết giữa Italia và
Vaticăng.
+ Về dân cư, thực chất những người dân sống tại Vaticăng đều là công dân của
rất nhiều quốc gia khác nhau: Thụy Sỹ, Italia...họ chỉ được coi là dân cư của
Vaticăng khi họ Yếu tố dân cư không mang
tính ổn định, họ xuất hiện chủ
[phục
vụ cho Giáo hoàng yếu mang tính thực
hiện công vụ với Vaticăng.
+ Về Chính phủ: Giáo hoàng của Vaticăng không phải là một thiết chế quyền lực và
Vaticăng không có các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước. Do đó, khi cần để
duy trì quyền lực nhà nước hay Chính Phủ
này không giống
[trật
tự, Vaticăng cần phải có sự trợ giúp của Italia
Chính phủ khác trên thế giới.
Từ những phân tích trên đây có thể thấy,
[ Vaticăng chỉ là một
thiết chế mang tính tôn giáo. Sở dĩ nó đựợc cho là chủ thể của LQT vì trong các
giai đoạn lịch sử phát triển của LQT, Vaticăng đóng vai trò quan trọng khi trở
thành trung gian hòa giải một số tranh chấp, bất hoà trong quan hệ quốc tế. Do
đó, họ được phép tham gia vào một số điều ước quốc tế nhất định.
* Thuộc tính chính trị - pháp lý của quốc gia: Khi một thực thể được tạo lên
bởi bốn yếu tố trên thì nó sẽ trở thành quốc gia và đương nhiên có thuộc tính
chính trị pháp lý là chủ quyền quốc gia, bao gồm 2 nội dung chính là quyền tối
cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình (quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp...) và quyền độc lập trong các quan hệ quốc tế (có đường lối đối ngoại
độc lập, tự do lựa chọn việc tham gia hay không tham gia tổ chức quốc tế hoặc
thiết lập quan hệ với quốc gia khác...).
*Phân biệt giữa yếu tố cấu thành quốc gia và thuộc tính chính trị-pháp lý của
quốc gia. Việc xem xét yếu tố cấu thành để trả lời cho câu hỏi một thực thể nào
đó có phải là quốc gia hay không? Vì bên cạnh quốc gia còn có các chủ thể đặc
biệt khác. Chủ quyền không phải yếu tố cấu thành quốc gia nhưng nó tạo ra địa
vị pháp lý bình đẳng giữa các quốc gia trong quan hệ pháp luật quốc tế).
(Câu hỏi: Để xem xét một thực thể nào đó có phải là quốc gia hay không có căn
cứ vào yếu tố chủ quyền không? Không. Mà phải dựa vào các yếu tố cấu thành quốc
gia. Khi một thực thể nào đó có thực thể
đó sẽ trở thành quốc gia và luôn
"đầy đủ
4 yếu tố cấu thành nêu trên luôn có
thuộc tính chủ quyền. Chủ quyền là thuộc tính tự nhiên vốn có của bất kỳ quốc
gia nào, có thể trong những trường hợp nhất định chủ quyền này có thể bị hạn
chế, nhưng đã là quốc gia thì luôn có chủ quyền).
2. Quyền năng chủ thể LQT của quốc gia
- Quyền năng chủ thể LQT của quốc gia là tổng thể những quyền và nghĩa vụ mà
quốc gia có được khi tham gia vào quan hệ pháp lý quốc tế. Quốc gia là chủ thể
duy nhất có quyền năng đầy đủ khi tham gia quan hệ quốc tế, điều này thể hiện ở
các quyền và nghĩa vụ quốc tế cơ bản sau:
* Quyền quốc tế cơ bản:
- Quyền bình đẳng về chủ quyền và quyền lợi;
- Quyền được tự vệ cá nhân hoặc tự vệ tập thể;
- Quyền được tồn tại trong hòa bình và độc lập;
- Quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ;
- Quyền được tham gia vào việc xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế;
- Quyền được trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế phổ biến.
*Nghĩa vụ quốc tế cơ bản:
- Tôn trọng chủ quyền của các quốc gia;
- Tôn trọng sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ của các quốc gia khác;
- Không áp dụng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực;
- Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
- Hợp tác hữu nghị với các quốc gia khác nhằm duy trì hòa bình, an ninh quốc
tế;
- Tôn trọng nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ quốc tế;
- Tôn trọng những quy phạm Jus Cogens và những cam kết quốc tế;
- Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các phương pháp hòa bình.
Ngoài các quyền và nghĩa vụ trên đây,
các quốc gia
[ khi tham gia quan hệ
pháp luật quốc tế có thể tự hạn chế những quyền và nghĩa vụ của mình trong
những lĩnh vực và phạm vi nhất định, không trái với các quy ước quốc tế.
VD: Thụy Sỹ tự hạn chế quyền và nghĩa vụ của mình khi tuyên bố theo đuổi con
đường trung lập.
- Cũng có trường hợp quốc gia có thể gánh vác thêm những quyền và nghĩa vụ bổ
sung nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
VD: Quyền vecto của 5 thành viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ. Ngoài những
quyền và nghĩa vụ cơ bản như các thành viên khác họ cũng gánh vác thêm những
quyền và nghĩa vụ khác.
Tuy nhiên, những việc làm này không nhằm
mục
[ đích đưa đến một kết
quả là quốc gia tự hạn chế hay mở rộng hơn chủ quyền đã được quy định trong quy
chế pháp lý của quốc gia, mà quốc gia đang thực hiện chủ quyền về đối ngoại của
mình xuất phát từ ý chí tự nguyện của quốc gia trong quan hệ quốc tế.
III. CÁC CHỦ THỂ KHÁC CỦA LUẬT QUỐC TẾ
1. Dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết
* Khi tham gia quan hệ quốc tế và thực hiện các chức năng chính trị của mình,
các dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết được luật quốc tế hiện
đại thừa nhận là những chủ thể đang trong giai đoạn quá độ để tiến lên thành
lập một quốc gia dân tộc độc lập, có chủ quyền. Nói cách khác, các dân tộc đang
đấu tranh giành độc lập là chủ thể quá độ lên chủ thể cơ bản của luật quốc tế
hiện đại. Tuy nhiên, với tính chất chủ thể như vậy, nên các dân tộc đang đấu
tranh giành độc lập và các quốc gia đều là những chủ thể chủ yếu của luật quốc
tế hiện đại và là những chủ thể bình đẳng với nhau về mặt pháp lý.
* Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc
tự quyết phát sinh từ chủ quyền dân tộc, được dân tộc đó thực hiện và bảo vệ.
Xuất phát từ chủ quyền dân tộc và nguyên tắc dân tộc tự quyết, các dân tộc đang
đấu tranh nhằm thành lập một quốc gia dân tộc độc lập có những quyền dân tộc cơ
bản sau:
- Được thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình trong bất cứ hình thức nào, dưới
bất cứ dạng nào, kể cả việc áp dụng những biện pháp để chống lại nước đang cai
trị mình;
- Được pháp luật quốc tế bảo vệ và các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, các
tổ chức quốc tế...giúp đỡ;
- Quyền được thiết lập những quan hệ với các chủ thể khác của LQT hiện đại;
- Được tham gia vào hoạt động của các tổ chức quốc tế và hội nghị quốc tế liên
chính phủ;
- Được tham gia vào quá trình xây dựng các quy phạm luật quốc tế và độc lập
trong quá trình thực thi luật quốc tế.
Cũng như các chủ thể khác của luật quốc tế hiện đại, đi đôi với các quyền quốc
tế cơ bản, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết cũng có
những nghĩa vụ quốc tế cơ bản. Đó là ng.ĩa vụ tôn trọng các nguyên tắc cơ bản
của luật quốc tế, tôn trọng các quyền của các dân tộc khác, của các chủ thể
khác của luật quốc tế hiện đại.
2. Tổ chức quốc tế liên chính phủ
* Khái niệm: Trong thời đại ngày nay, tổ chức quốc tế giữ vai trò rất quan
trọng trong việc hợp tác quốc tế, giải quyết các vấn đề quốc tế quan trọng, duy
trì hòa bình và an ninh quốc tế. Tổ chức quốc tế là chủ thể của luật quốc tế
được hiểu là tổ chức quốc tế liên chính phủ-là tổ chức do các quốc gia thành
lập lên trên cơ sở một điều ước quốc tế nhằm thực hiện các quyền năng nhất định
theo tôn chỉ, mục đích thành lập tổ chức đó, phù hợp với pháp luật quốc tế hiện
đại.
Như vậy, khác với quốc gia, tổ
[ chức quốc tế liên
chính phủ có được quyền năng chủ thể luật quốc tế không phải căn cứ vào thuộc
tính tự nhiên vốn có là chủ quyền, mà do sự thỏa thuận của các quốc gia thành
viên. Phạm vi quyền năng chủ thể của các tổ chức quốc tế liên quốc gia được xác
định cụ thể trong điều lệ của chính tổ chức đó. Do đó, số
[lượng các quyền và
nghĩa vụ của các tổ chức quốc tế khác nhau sẽ khác nhau Điểm khác biệt này thể hiện ở chỗ: Quốc gia
có thể tham gia ký kết bất kỳ điều ước quốc tế nào xuất phát từ lợi ích của
chính mình. Còn tổ chức quốc tế không tự xác định được phạm vi quyền và nghĩa
vụ cho mình khi tham gia quan hệ pháp lý quốc tế, mà tham gia trong phạm vi
được các thành viên trao quyền. Do đó, tổ chức quốc tế là chủ thể phái sinh,
chủ thể có quyền năng hạn chế (không đầy đủ) của luật quốc tế.
VD: WTO không được tham gia ký kết các điều ước quốc tế liên quan đến vấn đề an
ninh, quốc phòng...theo thỏa thuận của các thành viên, WTO chỉ tham gia các
điều ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực thương mại hành hoá, thương mại dịch
vụ, sở hữu trí tuệ...
*Quyền và nghĩa vụ của tổ chức quốc tế liên quốc gia: Nhìn chung các tổ chức
quốc tế liên chính phủ có các quyền quốc tế cơ bản sau đây:
- Quyền được ký kết các Điều ước quốc tế;
- Quyền được tiếp nhận cơ quan đại diện của các quốc gia thành viên và nhận các
quan sát viên thường trực của các quốc gia chưa là thành viên của tổ chức cử
đến;
- Quyền được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao;
- Quyền được trao đổi đại diện tại các tổ chức của nhau;
- Quyền được yêu cầu có các kết luận tư vấn của tòa án quốc tế của Liên hợp
quốc;
- Quyền được giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các thành viên với nhau
và giữa thành viên với tổ chức quốc tế.
- Hưởng các quyền theo quy định của điều ước quốc tế mà tổ chức tham gia ký kết
với các quốc gia hoắc các tổ chức quốc tế khác.
Ngoài các quyền cơ bản nêu trên, tổ chức quốc tế liên chính phủ có nghĩa vụ tôn
trọng các nguyên tắc của luật quốc tế, tôn trọng các quyền của tổ chức quốc tế
và các chủ thể khác của luật quốc tế; thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của một chủ
thể luật quốc tế.
IV. CÔNG NHẬN QUỐC TẾ
1. Khái niệm
a. Sự xuất hiện và tồn tại trên trường quốc tế những quốc gia trẻ, mới giành
được độc lập và việc thành lập tại nhiều quốc gia những chính phủ mới có quy
chế pháp lý hoàn toàn khác với quy chế pháp lý của chính phủ đã tồn tại trước
đó trong cộng đồng quốc tế tất yếu sẽ gây nên những phản ứng khác nhau cho các quốc
gia, các chính phủ khác. Trước các sự kiện trên, các quốc gia, các chính phủ
khác thường có những hành động nhất định nhằm thể hiện thái độ, phản ứng của
mình, qua đó bày Đây là cơ sở đặt ra vấn
đề công nhận
[tỏ quan điểm của mình
đối với sự kiện này trong luật quốc tế.
Như vậy, hành vi công nhận được đặt ra khi có sự xuất hiện của quốc gia mới
hoặc người đại diện mới cho quốc gia trong quan hệ quốc tế.
b. Định nghĩa: Như vậy, công nhận quốc tế là hành vi chính trị - pháp lý của
quốc gia công nhận dựa trên nền tảng các động cơ nhất định (mà chủ yếu là động
cơ chính trị, kinh tế, quốc phòng) nhằm xác nhận sự tồn tại của thành viên mới
trong cộng đồng quốc tế, khẳng định quan hệ cuả quốc gia công nhận đối với
chính sách, chế độ chính trị, kinh tế của thành viên mới và thể hiện ý định
muốn được thiết lập các quan hệ bình thường, ổn định với thành viên mới của
cộng đồng quốc tế trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống quốc tế.
2. Công nhận và quyền năng chủ thể LQT của quốc gia được công nhận
Câu hỏi: hành vi công nhận có tạo ra quyền năng chủ thể LQT của quốc gia được
công nhận hay không?
Liên quan đến vấn đề này, trong thực tiễn quan hệ quốc tế tồn tại một số các
học thuyết với những quan điểm khác nhau. Trong đó, nổi lên 2 học thuyết đó là:

• Thuyết cấu thành: Thuyết cấu thành (hay còn gọi là thuyết sáng lập ra chủ thể
LQT) xuất hiện vào đầu thế kỉ 19. Nội dung cơ bản của thuyết này cho rằng hành
vi công nhận sẽ tạo ra quyền năng chủ thể LQT cho quốc gia được công nhận. Theo
đó, ngoài 4 yếu tố cấu thành quốc gia, quốc gia phải được các quốc gia khác
công nhận mới có tư cách là chủ thể LQT. Hạn chế lớn nhất của thuyết này đó là
gắn sự tồn tại của một quốc gia vào ý chí chủ quan của một quốc gia khác. Điều
này tạo ra sự bất bình đẳng về nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
và do đó nó mâu thuẫn với nội dung của LQT hiện đại.
• Thuyết tuyên bố: Thuyết này được hình thành từ trào lưu chống lại thuyết cấu
thành của các luật gia quốc tế tư sản. Nội dung của thuyết này cho thấy, hành
vi công nhận không tạo ra quyền năng chủ thể LQT cho quốc gia được công nhận,
mà hành vi công nhận chỉ có ý nghĩa như một tuyên bố về sự tồn tại của quốc gia
mới trong quan hệ quốc tế. Học thuyết này được sử dụng và được thừa nhận phổ
biến hơn thuyết cấu thành.
VD: sau năm 1945, Việt nam DCCH trở thành 1 quốc gia độc lập và có đầy đủ quyền
năng tham gia quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, do chưa được hầu hết các quốc gia
công nhận nên khả năng thực hiện quyền năng chủ thể LQT của VNDCCH bị hạn chế
rất nhiều.Ví như việc tham gia LHQ. VNDCCH có nộp đơn yêu cầu. Tuy nhiên, theo
thủ tục thông qua các nghị quyết của LHQ là phải có 9/15 phiếu (trong đó có 5
phiếu của các UVTT của HĐBALHQ), nhưng VN bị 3 quốc gia là Mỹ, Pháp và Trung
Quốc bỏ phiếu phủ quyết với lý do các quốc gia này không công nhận VNDCCH là
một quốc gia độc lập. Tuy nhiên, đến năm 1977 do có sự công nhận của hầu hết
các quốc gia này nên VN đã trở thành thành viên của LHQ.
Nhận xét:
[ Như vậy, công nhận sự tồn tại của một quốc gia mới đối với quốc
gia tiến hành việc công nhận là hành vi pháp lý dựa trên chủ quyền quốc gia (là
quyền của quốc gia). Pháp luật quốc tế không đặt ra nghĩa vụ phải công nhận
quốc gia mới cho mỗi chủ thể LQT. Tiến hành các hành vi công nhận mang tính
pháp lý, chính trị, quốc gia công nhận thường dựa trên những động cơ, mục đích
nhất định nhằm thực hiện ý định, mong muốn thiết lập quan hệ bình thường và ổn
định ở nhiều lĩnh vực khác nhau với quốc gia được công nhận. Và việc công nhận
hay không công nhận của các quốc gia đối với quốc gia mới xuất hiện không làm
ảnh hưởng đến tư cách quốc gia của thực thể đó. Tuy nhiên, hành vi công nhận
của các quốc gia khác sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho quốc gia được
công nhận khi tham gia vào các quan hệ quốc tế.
3. Các thể loại công nhận quốc tế, hình thức và phương pháp công nhận
a. Các thể loại công nhận quốc tế: Trong thực tiễn quan hệ quốc tế có nhiều thể
loại công nhận khác nhau, như: công nhận mặt trận dân tộc giải phóng, công nhận
các bên khởi nghĩa, công nhận các bên tham chiến... Song, công nhận quốc gia và
công nhận chính phủ mới thành lập là hai thể loại công nhận cơ bản của công
nhận quốc tế.
Công nhận quốc gia: Bản chất của công
nhận quốc
v gia là công nhận chủ
thể mới trong quan hệ quốc tế. Việc công nhận quốc gia được đặt ra khi có một
quốc gia mới xuất hiện. Thông thường, các quốc gia mới được hình thành chủ yếu
theo một trong các con đường sau:
- Theo cách truyền thống và cổ điển nhất: tại các lãnh thổ vô chủ không có
người sống, một nhóm bắt đầu có sự thiết
lập chế độ quản lý
"người
đến sinh sống trên lãnh thổ đó nhằm duy
trì trật tự xã hội và tăng cường quyền lực để mở rộng đất đai...Như vậy, quốc
gia hình thành theo con đường truyền thống là sự tập hợp dần dần của 4 yếu tố
cấu thành quốc gia. Yếu tố quan trọng nhất để quốc gia được hình thành theo
cách này là phải tồn tại lãnh thổ vô chủ. Tuy nhiên, hiện nay lãnh thổ vô chủ
hầu như không còn tồn tại trong quan hệ quốc tế, vì bên cạnh lãnh thổ quốc gia
(nơi quốc gia có chủ quyền hoàn toàn), thì các lãnh thổ khác (bao gồm cả các hành
tinh) cũng được cộng đồng quốc tế xác lập cho nó quy chế của lãnh thổ quốc tế -
nơi các quốc gia không có quyền chiếm hữu và định đoạt, nhưng có quyền sử Do đó, hiện nay quốc gia mới không còn được
hình thành theo cách này.
[dụng.
- Hiện nay, quốc gia mới được hình thành chủ yếu theo các con đường: chia tách
(Liên Xô cũ tách thành 15 quốc gia) hay hợp nhất quốc gia (VD: CHLB Đức được
hợp nhất từ Đông Đức và Tây Đức); thông qua con đường đấu tranh giải phóng dân
tộc (Việt Nam sau năm 1945), hoặc quốc gia hình thành từ Cách mạng xã hội
(CMT10 Nga). Đối với trường hợp quốc gia cũ nhưng chính phủ mới (thường thông
qua đảo chính), cộng đồng quốc tế sẽ bày tỏ thái độ, quan điểm của mình trước
sự xuất hiện của chủ thể mới hay người đại diện mới cho quốc gia trong các quan
hệ những phản ứng quốc tế như vậy thường
đưa đến những hệ quả pháp lý
[quốc
tế nhất định, làm thay đổi hoặc củng cố
thêm các mối quan hệ quốc tế đa dạng giữa các quốc gia. Đồng tình hay không
đồng tình, ủng hộ hay không ủng hộ...chính là biểu hiện của hành vi công nhận
hay không công nhận trong quan hệ quốc tế.
Về pháp lý, bất kỳ quốc gia nào mới hình thành trong LQT không đặt ra điều kiện
công nhận.
Công nhận chính phủ: Việc công nhận
Chính phủ mới chỉ
v
đuwocj đặt ra trong trường hợp chính phủ mới được thành lập không bằng con
đường hợp hiến. Bản chất của công nhận Chính phủ mới là công nhận người đại
diện hợp pháp cho một quốc gia vẫn đang tồn tại trong quan hệ quốc tế (trong
trường hợp quốc gia mới được hình thành thì sự công nhận quốc gia mới đồng thời
bao hàm cả việc công nhận chính phủ mới của quốc gia đó. Do đó, không đặt ra
vấn đề công nhận riêng chính phủ trong trường hợp này). Chính phủ mới xuất hiện
chủ yếu dưới 2 hình thức là chính phủ de jure (là kết quả về mặt pháp lý) và
chính phủ de facto (hình thành chủ yếu do đảo chính). Tuy nhiên, việc công nhận
chỉ đặt ra đối với chính phủ de facto vì: nó là chính phủ phi hiến, quốc gia
khác muốn thiết lập quan hệ với chính phủ này phải tiến hành công nhận. Khác
với công nhận quốc gia mới, để được công nhận, chính phủ mới thành lập phải
thỏa mãn 3 điều kiện để chứng minh cho tính hữu hiệu của mình đó là:
- Yếu tố không gian: chính phủ đó phải kiểm soát toàn bộ hoặc phần lớn lãnh thổ
quốc gia.
- Yếu tố thời gian: Chính phủ đó phải có khả năng để duy trì quyền lực của mình
trong một thời gian dài.
- Chính phủ đó phải được sự ủng hộ của đông đảo dân chúng
b. Hình thức công nhận: Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, cho đến nay chưa có
một hình thức công nhận nào được áp dụng chung thống nhất đối với các thể loại
và đối với các trường hợp công nhận cụ thể. Nhìn chung, có 3 hình thức công
nhận chủ yếu được đua ra trong quan hệ quốc tế, đó là: công nhận de jure, công
nhận de facto và công nhận ad hoc. 3 hình thức công nhận này biểu hiện 3 cấp độ
công nhận khác nhau trong sinh hoạt quốc tế, điều này thể hiện ở chỗ:
Công nhận de jure Công nhận de facto Công nhận ad hoc
- Đây là hành vi công nhận chính thức ở mức độ đầy đủ nhất, toàn diện nhất. -
Đây là hành vi công nhận chính thức nhưng chưa đầy đủ, chưa toàn diện. - Là
hình thức công nhận không chính thức, quan hệ giữa các bên chỉ phát sinh trong
một phạm vi nhất định nhằm giải quyết một vụ việc cụ thể, và quan hệ đó sẽ chấm
dứt ngay sau khi hoàn thành công việc.
- Động cơ: thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối và thực sự muốn thiết lập quan hệ
với bên được công nhận - Thể hiện sự thận trọng, e ngại và miễn cưỡng trong
việc thiết lập quan hệ
- Tính chất: là hình thức công nhận vĩnh viễn, không thể bị hủy bỏ - Là hình
thức công nhận tạm thời, có thể bị hủy bỏ hoặc duy trì và nâng lên thành công
nhận de jure, tùy thuộc vào động cơ công nhận
- Hệ quả pháp lý: nhằm thiết lập quan hệ ngoại giao trên tất cả các phương diện
- là cơ sở cho việc thiết lập các quan hệ lãnh sự, chủ yếu trong lĩnh vực kinh
tế, thương mại
- Khác với công nhận ad hoc-là hình thức công nhận mang tính vụ việc, 2 hình
thức công nhận de jure và de facto là hình thức công nhận chính thức, quan hệ
giữa quốc gia công nhận và quốc gia được công nhận trong 2 hình thức này được
duy trì thường xuyên.
VD: Năm 1976 Mỹ thực thi chính sách cấm vận đối với Việt nam, tuy nhiên trong
thời gian này, Mỹ cũng tiến hành công nhận ad hoc với Việt nam bằng cách ký một
loạt các hiệp định song phương liên quan đến vấn đề tìm kiếm hài cốt liệt sỹ Mỹ
mất tích tại Việt nam...
c. Phương pháp công nhận: Là cách thức mà các quốc gia thể hiện thái độ của
mình. luật quốc tế hiện đại không bắt buộc các quốc gia hay chủ thể khác phải
áp dụng phương pháp công nhận cụ thể nào cho từng trường hoạp công nhận khác
nhau. Việc lựa chọn phương pháp công nhận nào hoàn toàn xuất phát từ sự lựa
chọn của chủ thể công nhận. Thực tiễn quan hệ quốc tế cho thấy có 2 phương pháp
công nhận thường được áp dụng là công nhận minh thị và công nhận mặc thị.
- Công nhận minh thị: Là sự công nhận được thể hiện rõ ràng, minh bạch, thông
qua các hành vi rõ rệt, cụ thể của quốc gia công nhận trong các văn bản chính
thức (như công hàm, văn kiện ngoại giao...).
VD: Nga công khai tuyên bố công nhận độc lập của Nam Ossetia và Apkhazia
- Công nhận mặc thị: Là sự công nhận được thể hiện một cách kín đáo, ngấm ngầm
mà bên được công nhận hoặc các quốc gia và chính phủ khác phải dựa vào tập quán
hay các nguyên tắc suy diễn trong quan hệ quốc tế mới làm sáng tỏ được ý định
của bên công nhận.
VD: - Hoa kỳ mặc nhiên công nhận Việt Nam DCCH khi ký kết Hiệp định Pari năm
1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt nam.
- quốc gia A không công khai công nhận quốc gia B, nhưng lại thiết lập các quan
hệ kinh tế, thương mại, trao đổi phái đoàn ngoại giao với B.
4. Hệ quả pháp lý của hành vi công nhận
- Công nhận không tạo ra chủ thể mới của LQT, nhưng việc công nhận là cơ sở để
thiết lập, duy trì và phát triển quan hệ bình thường giữa các quốc gia.
- Tạo cho quốc gia mới có điều kiện để tham gia vào các quan hệ quốc tế: tham
gia xây dựng LQT, tham gia các tổ chức quốc tế, hội nghị quốc tế, tham gia giải
quyết các vấn đề quốc tế có liên quan đến mình.
- Tạo điều kiện cho quốc gia mới phát triển về mọi mặt: kinh tế, xã hội...
- Là cơ sở để giải quyết triệt để vấn đề quy chế pháp lý quốc gia. Nếu quốc gia
không được công nhận sẽ gặp khó khăn khi tham gia quan hệ quốc tế (VD: không
được hưởng quyền miễn trừ quốc gia).
V. KẾ THỪA TRONG LUẬT QUỐC TẾ
Vấn đề kế thừa quốc gia thường được đặt ra khi có sự thay đổi triệt để về chủ
quyền của một quốc gia tại một lãnh thổ nhất định. Sự thay đổi triệt để về chủ
quyền đó có thể là kết quả của việc xuất hiện hoặc chấm dứt sự tồn tại của một
quốc gia.
1. Khái niệm
- Kế thừa quốc gia là sự chuyển dịch quyền và nghĩa vụ quốc tế từ quốc gia này
sang quốc gia khác có liên quan đến vùng lãnh thổ nhất định.
VD: Liên Bang Nga kế thừa tư cách ủy viên thường trực của HĐBALHQ của Liên Xô

* Xem xét kế thừa dưới góc độ quan hệ pháp luật quốc tế thì:
- Chủ thể của quan hệ kế thừa là các quốc gia. Bao gồm các quốc gia để lại kế
thừa và các quốc gia kế thừa.
- Đối tượng kế thừa: là các quyền và nghĩa vụu quốc tế được chuyển dịch từ quốc
gia này sang quốc gia khác. Trong thực tế, quan hệ kế thừa thường đề cập tới
các quyền và nghĩa vụ liên quan đến lãnh thổ, tài sản, các điều ước quốc tế và
quy chế thành viên tại các tổ chức quốc tế.
- Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi quyền thừa kế: Sự kiện làm xuất hiện
quan hệ này là sự thau đổi về chủ quyền quốc gia trên một lãnh thổ nào đó. Sự
thay đổi này có thể là sự hình thành quốc gia mới (do tách, hợp nhất...) hoặc
khi có sự chuyển dịch lãnh thổ (nghiã là lãnh thổ của quốc ginày chuyển nhượng
một phần cho quốc gia khác. Đây là phương thức không hình thành quốc gia mới).
VD: Hồng Kông, Macao của trung Quốc được chuyển dịch cho Anh và Bồ Đào Nha.
2. Thực tiễn về giải quyết kế thừa quốc gia trong một số lĩnh vực chủ yếu
*Kế thừa quyền sở hữu đối với tài sản: Giải quyết kế thừa liên quan đến vấn đề
tài sản luôn được đặt ra trong mọi trường hợp kế thừa quốc gia. Và cách giải
quyết chủ yếu phụ thuộc vào tính chất sở hữu tài sản và quan điểm, cách nhìn
nhận của mỗi quốc gia khi được kế thừa. Thông thường, đối với các quốc gia ra
đời sau thời kỳ phi thực dân hóa đều có quan điểm quốc hữu hóa tài sản của tư
nhân hoặc của quốc gia thực dân để lại không có bồi thường. Việc quốc gia kế
thừa có tiến hành quốc hữu hóa, hay trưng dụng, trưng thu...hoàn toàn phụ thuộc
vào quốc gia kế thừa dựa trên cơ sở lợi ích của quốc gia đó. Trong một số trường
hợp vấn đề kế thừa tài sản có thể do các bên tự thỏa thuận như trường hợp tách
hoặc chuyển nhượng, trao đổi lãnh thổ).
* Kế thừa quy chế thành viên tại tổ chức quốc tế hoặc nghĩa vụ thành viên điều
ước quốc tế. Đây là một nội dung quan trọng được đặt ra khi giải quyết vấn đề
kế thừa quốc gia.
- Với điều ước quốc tế mà quốc gia để lại kế thừa đang là thành viên, quốc gia
kế thừa có thể tiếp tục thực hiện những điều ước phù hợp với lợi ích quốc gia;
hoặc thừa nhận hiệu lực của mọi điều ước mà quốc gia để lại kế thừa đã ký kết
hoặc tham gia. Riêng đối với các điều ước liên quan đến biên giới quốc gia-lãnh
thổ, điều ước về nhân quyền, điềuước tạo ra một số các hoàn cảnh khách quan đặc
biệt thì quốc gia kế thừa phải có nghĩa vụ tuân thủ.
- Kế thừa quy chế thành viên tại tổ chức quốc tế: quan hệ kế thừa này chỉ đặt
ra khi quốc gia để lại kế thừa không còn tồn tại trên thực tế. Tuy nhiên, đối
với trường hợp quốc gia mới được tách ra từ quốc gia liên bang, hoặc từ một
quốc gia độc lập khác thì có quốc gia đương nhiên đựoc hưởng quy chế thành viên
của một tổ chức quốc tế, trong khi quốc gia còn lại sẽ trở thành thành viên của
chính tổ chức quốc tế đó thông qua thủ tục kết nạp thành viên mới.
VD: Khi Ấn Độ được tách ra thành Ấn Độ Và Pakistan, thì Ấn Độ đương nhiên là
thành viên của Liên Hợp Quốc, còn Pakistan là thành viên của LHQ bằng con đường
kết nạp thành viên mới.
https://tuvanluat.forumvi.net

Thích

Báo xấu [0]

Gửi một bình luận lên tường nhà Admin

Back to topMessage [Page 1 of 1]

« Xem bài trước | Xem bài kế tiếp »

Bài viết mới cùng chuyên mục

      Quyền hạn của bạn:

      You cannot reply to topics in this forum